Tiêm chủng là một công cụ quan trọng để bảo vệ động vật nuôi khỏi các bệnh truyền nhiễm. Mặc dù việc tiêm
chủng rất phổ biến trong động vật chăn nuôi và gia súc,nhưng tiêm chủng cho cá nuôi vẫn còn hạn chế hơn (1).
Một nghiên cứu gần đây từ Tinh và đồng nghiệp tại Viện Công nghệ Asian tại Thái Lan đã nghiên cứu khả năng
của cá Vược (Lates calcarifer, Bloch 1790) để phản ứng miễn dịch với một loại vaccine chống lại vi khuẩn gây
bệnh phổ biến Streptococcus iniae (2). Các phương pháp ELISA được thực hiện bằng máy đọc đĩa hấp thụ
Ao Absorbance Microplate Reader (Số catalog # AC3000) từ Azure Biosystems đã là một phần không thể thiếu
của nghiên cứu này.
Cá Vược Đông Nam Á là một loài có ý nghĩa thương mại đáng kể trong ngành nuôi trồng thủy sản ở các
vùng nước ven biển của Đông Nam Á. Giống như các loài cá khác, loài cá nuôi này dễ bị bùng phát bệnh
do nhiễm trùng vi khuẩn và virus. Một tác nhân gây bệnh quan trọng đối với cá nuôi ở Đông Nam Á là vi khuẩn
Streptococcus iniae. S. iniae có thể lây nhiễm cho các loài cá khác và động vật có vú như con người và cá heo,
gây tỷ lệ tử vong đáng kể, tổn thương da và bệnh nhiễm trùng hệ thống. Để bảo vệ cá (và sau đó là những
người nuôi cá) khỏi S. iniae, việc tiêm chủng là cần thiết. Lý tưởng là việc tiêm chủng nên diễn ra sớm trong vòng
đời của cá, trước khi tiếp xúc với tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều điều chưa biết về thời điểm
phát triển của hệ miễn dịch thích ứng ở cá Vược con và liệu cá con có thể phản ứng với tiêm chủng hay không.
Trong một nghiên cứu gần đây, Vinh và đồng nghiệp đã nghiên cứu khả năng của cá Vược đang trưởng thành
ở giai đoạn cá con để phản ứng miễn dịch với một loại vắc xin chống lại S. iniae. Cá được tiêm vắc xin vào 35
hoặc 42 ngày sau khi nở (dph) bằng cách sử dụng vắc xin S. iniae được bất hoạt bằng nhiệt thông qua phương
pháp tiêm chủng ngâm (vắc xin được thêm vào nước mà cá được nuôi). Phản ứng miễn dịch của cá đã được
đánh giá bằng cách đo lường sự sản sinh kháng thể của IgM bằng ELISA và đo lường mức biểu hiện của một
số gene liên quan đến miễn dịch.
Các thí nghiệm ELISA đã đánh giá lượng kháng thể mà cá sản xuất để nhắm mục tiêu vào một kháng nguyên
của S. iniae.Các đĩa Elisa chứa kháng nguyên đã được phủ và sau đó được ủ bằng kháng thể được chuẩn bị từ cá
đã được tiêm vắc xin vào các thời điểm được xác định sau tiêm chủng. Sáu con cá đã được đánh giá vào thời
điểm 0, 7 và 14 ngày sau tiêm chủng. Kháng thể của cá bám vào đĩa Elisa và được phát hiện bằng cách sử dụng
kháng thể bậc 1 anti-Asian seabass và kháng thể bậc 2 goat-anti- mouse secondary antibody conjugated to HRP.
Lượng kháng thể bậc 2 bám vào đã được xác định bằng cách đo hấp thụ của cơ chất phát quang (3,3′,5,5′-
tetramethylbenzidine (TMB)) tại bước sóng 450nm trên máy đọc đĩa Ao Absorbance Microplate Reader.
Các thí nghiệm ELISA đã chứng minh rằng tiêm chủng đã dẫn đến một sự tăng đáng kể trong việc sản xuất các
kháng thể nhắm mục tiêu đến S. iniae ở cá Vược con. Trong số cá có tuổi là 35 ngày sau khi tiêm, bốn trong số
sáu con cá đã tạo ra các kháng thể đối với kháng nguyên S. iniae 14 ngày sau khi tiêm chủng. Trong số cá có tuổi
là 42 ngày sau khi tiêm, hai trong số sáu con cá đã có kháng thể đối với kháng nguyên S. iniae sau bảy ngày tiêm,
và ba trong số sáu con cá đã có kháng thể sau 14 ngày tiêm chủng.
Các thí nghiệm biểu hiện gen tương tự đã chứng minh rằng sự biểu hiện của các gen liên quan đã tăng lên ở cá con.
Sự thay đổi biểu hiện đã được phát hiện một ngày sau khi tiêm chủng ở cá có tuổi là 42 ngày so với bảy ngày ở cá có
tuổi là 35 ngày. Không có các phép đo được thực hiện giữa một và bảy ngày, vì vậy bất kỳ thay đổi biểu hiện nào trong
khoảng thời gian đó cũng không thể được xác định.
Các tác giả kết luận rằng việc tiêm chủng sớm cho cá Vược là khả thi và cá Vược có tuổi là 35 ngày có thể phát triển
miễn dịch chống lại một vi sinh vật gây bệnh. Phương pháp tiêm chủng ngâm đã thành công với cá con, cho thấy
phương pháp này là thực tế hơn khi sử dụng với cá con.
Máy đọc vi đĩa Ao Absorbance Microplate Reader được các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Á-Âu bao gồm một bánh
lọc 8 vị trí để linh hoạt đo hấp thụ của nhiều thí nghiệm thông thường, bao gồm cả thử nghiệm TMB (như trong công việc
gần đây được thảo luận ở đây), thử nghiệm Lowry, thử nghiệm Bradford, và nhiều hơn nữa. Máy đọc này bao gồm một
bộ rung tích hợp với tốc độ lựa chọn, chế độ đọc đơn và đôi, và phần mềm phân tích để làm cho việc thực hiện và giải
thích các thí nghiệm ELISA và các thí nghiệm dựa trên các đĩa 96 giếng nhanh chóng và dễ dàng. Tìm hiểu thêm về máy
đọc vi đĩa hấp thụ Ao bằng cách nhấp vào đây.